Song chẳng những chỉ có Vĩnh Minh Đại Sư mới như thế
mà thôi. Ngoài ra, còn có Tử Tâm Tân Thiền Sư đã ngộ
bên Thiền, lại khuyên tu bên Tịnh. Ngài đã bảo: Di
Đà rất dễ niệm, Tịnh Độ rất dễ sanh. Người tham
thiền niệm Phật rất tốt. Nếu kẻ căn cơ hơi kém, sợ e
đời nay chưa được đại ngộ, kiếp sau dễ lạc bến mê,
thì nên nhờ sức bi nguyện của Đức A Di Đà để sớm
vãng sanh về Cực Lạc. Nếu vị nào chí tâm niệm Phật
mà không được sanh về Tịnh Độ, lão tăng xin chịu đọa
vào địa ngục Bạt Thiệt (ngục rút lưỡi). Lại như Chân
Yết Liễu Thiền Sư, trong bài văn khuyên tu Tịnh Độ,
có nói: 'Tại sao người trong tông Tào Động, ngoài sự
tập thiền, còn mật tu Tịnh Độ? Sở dĩ có việc ấy, vì
pháp môn niệm Phật là con đường tắt trong các lối tu
hành. Xét trong Đại Tạng môn nầy ngoài sự tiếp dẫn
bậc thượng thượng căn còn thâu nhiếp hạng người
trung hạ... Bậc đại tượng trong tông môn đã ngộ pháp
phi không phi hữu, lại chăm chú tu tịnh nghiệp, có
phải sự thấy Phật cửa Tịnh Độ còn giản dị hơn tông
môn chăng? Cho nên dù Phật dù Tổ, hoặc Giáo hoặc
Thiền, đều do nơi cửa Tịnh Độ đồng về nơi chân
nguyên. Vào được môn nầy, tức có thể vào được vô
lượng pháp môn khác...'
Đến như các ngài: Thiên Y Hoài Thiền Sư, Viên Chiếu
Bản Thiền Sư, Từ Thọ Thâm Thiền Sư, Nam Nhạc Tư
Thiền Sư, Pháp Chiếu Thiền Sư, Tịnh Yết Thiền Sư,
Tịnh Từ Đại Thông Thiền Sư, Thiên Thai Hoài Ngọc
Thiền Sư, Lương Đạo Trân Thiền Sư, Đường Đạo Xước
Thiền Sư, Tỳ Lăng Pháp Chân Thiền Sư, Cô Tô Thủ Nạp
Thiền Sư, Bắc Nhàn Giản Thiền Sư, Thiên Mục Lễ Thiền
Sư, những đại lão ấy là bậc tông tượng trong thiền
môn, song xét ra chỗ mật tu và hiển hóa đều phát
dương ý chỉ Tịnh Độ, tuy không ước hẹn mà ngẫu nhĩ
đồng đường. Chẳng những các vị đại lão ấy như thế mà
thôi, tôi lại thường nghe một vị kỳ túc bên tông môn
nói: 'Hầu hết ngũ gia tông phái và những thiền tăng
trong thiên hạ, đã tỏ ngộ cùng chưa tỏ ngộ, đều quy
hướng về Tịnh Độ.' Hỏi lý do thì vị đó đáp: 'Ngài Bá
Trượng Trí Hải Thiền Sư là đích tử của Giang Tây Mã
Tổ, những tòng lâm trong thiên hạ đều y theo cách
thức của ngài mà kiến lập và thanh quy ở khắp thiền
môn đều y theo pháp chế của ngài mà cử hành. Từ xưa
đến nay không ai dám có lời thị phi và trái với pháp
chế ấy. Theo thanh quy của ngài, thì nghi thức tụng
cầu cho những vị tăng bệnh nặng có lời văn như sau:
'Phải nhóm chúng lại, tất cả đồng tụng bài kệ tán
Phật A Di Đà, rồi cao tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật,
hoặc trăm câu, ngàn câu. Khi niệm xong, hồi hướng
phục nguyện rằng: Nếu các duyên chưa mãn, sớm được
an lành. Như hạn lớn đến kỳ, sanh về A Dưỡng.' Đó
chẳng phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ hay sao?
Lại trong nghi thức đưa những vị tăng đã tịch có
đoạn nói: 'Đại chúng đồng niệm A Di Đà Phật hồi
hướng phục nguyện rằng: Thần siêu cõi tịnh, nghiệp
dứt đường trần, thượng phẩm sen nở hiện kim thân,
nhứt sanh Phật trao phần quả ký.' Đó không phải là
bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ hay sao? Đến như lúc trà
tỳ, trong thanh quy lại dạy: Vị Duy Na chỉ dẫn khánh
niệm Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại
Bi A Di Đà Phật mười lần, đại chúng đồng xướng họa
theo.
Khi xướng xong, lại hồi hướng rằng: 'Trước đây xưng
dương mười niệm, phụ giúp vãng sanh...' Đó không
phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ hay sao? Cho nên
lão tăng nói: 'Các thiền gia trong thiên hạ đều quy
hướng Tịnh Độ, là bởi nguyên nhân đó.' Tôi nghe
những lời dẫn chứng của vị kỳ túc ấy đều có y cứ,
nên không biện bác ra sao được. Nhân đó tôi lại chợt
hiểu chỗ lập pháp của ngài Bá Trượng tất có thâm ý
nhiệm mầu.
Nay ông ở tòng lâm, thân đã đưa không biết bao nhiêu
vị tăng quy tịch, tai cùng miệng đã nghe và xướng
không biết bao nhiêu lần mười niệm, ý đã chuyên chú
hồi hướng về Tịnh Độ lại không biết bao nhiêu lần
nữa! Thế mà ông đã không hiểu ý Tổ Sư, đã không phát
lòng thức tỉnh, lại lầm bảo: những bậc ngộ đạt không
nguyện vãng sanh. Quả thật cái bệnh chấp thiền trong
thiên hạ, không còn ai hơn ông được.