Lại chẳng thấy trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ
Tát đem mười đại nguyện vương khuyến tấn Thiện Tài
Đồng Tử và đại chúng nơi hải hội, nên dùng công đức
đó cầu sanh về Cực Lạc ư? Trong ấy có đoạn nói: 'Tôi
nguyện khi đến lúc lâm chung. Dứt trừ tất cả điều
chướng ngại. Diện kiến Đức Phật A Di Đà, liền được
sanh về cõi Cực Lạc.'
Lại chẳng thấy trong Kinh Lăng Già, Đức Thế Tôn đã
huyền ký: 'Sau xứ Nam Thiên Trúc, có danh đức Tỳ
Khưu, tôn hiệu là Long Thọ. Hay phá hữu, vô tông.
Trong thế gian hiển ngã. Pháp Vô Thượng đại thừa.
Chứng Sơ Hoan Hỷ Địa. Sanh về cõi Cực Lạc' ư?
Và chẳng thấy trong Luận Khởi Tín, Mã Minh Bồ Tát,
khen ngợi sự vãng sanh; trong Kinh Đại Bảo Tích,
Phật hứa khả cho Tịnh Phạn Vương và bảy muôn Thích
chủng đồng về An Dưỡng; trong Kinh Thập Lục Quán,
Đức Thế Tôn chỉ dạy phương pháp cho bà Vi Đề Hy cùng
năm trăm thị nữ được lễ cẩn Đức A Di Đà ư?
Trong mấy vị trên, như Vua Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy
hiện tiền đều đã chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ở Tây
Trúc những hạng ấy cầu vãng sanh rất nhiều. Bên đông
độ thì có Viễn Công ở Lô Sơn cùng các bậc cao nhơn
trong Liên Xã, những vị tôn túc ở hai tông Thiên
Thai, Hiền Thủ, tất cả đều dùng môn niệm Phật tự tu
và độ người khuyến hóa hàng tăng tục đồng cầu sanh
về Tịnh Độ. Nói chung những bậc cao đức tu tịnh
nghiệp số lượng không biết bao nhiêu mà kể! Đến như
hai ngài Văn Thù, Phổ Hiền là bậc Đại Bồ Tát, Thiện
Tài Đồng Tử và hải chúng Hoa Tạng đều là bậc đại
nhơn trong bốn mươi mốt vị. Mã Minh, Long Thọ là
hàng Bồ Tát, mà cũng là bậc Đại Tổ Sư.
Những thánh nhơn ấy chỗ ngộ và chứng siêu xuất hơn
người ngộ đạt ngày nay như trời với vực, mà còn
nguyện sanh về Tây Phương, ông bảo rằng đã tỏ ngộ
không cầu về Cực Lạc, lại bác sự cầu sanh, thì các
ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, chắc là
không bằng ông rồi! Ông thử tự lượng xem chổ tu
chứng có bằng hai bậc Đại Sĩ, và hai vị Tổ Sư; sự
tham ngộ có bằng ngài Thiện Tài cùng hải chúng, cảnh
giới sở đắc và được Phật hứa khả có bằng vua Tịnh
Phạn và bà Vi Đề Hy chăng? Vã Tịnh Phạn Vương là
thân sanh của Phật, bảy muôn Thích chủng là tộc
thuộc của Ngài, nếu sự về Tịnh Độ không có lợi ích
thì Đức Thế Tôn đâu nỡ khiến phụ vương và hàng thân
thuộc cầu vãng sanh? Trước kia đã nói bậc chứng được
Vô Sanh Nhẫn có thể vào tục độ sanh, nay vua Tịnh
Phạn và người thân thuộc của Phật đã đắc quả ấy mà
Đức Như Lai còn khuyên và thọ ký cho vãng sanh, thì
tấm lòng hộ trì bảo dưỡng của Ngài há chẳng là thân
thiết và sâu xa ư?
Tôi thấy hàng thiền giả đời nay phần nhiều không xét
liễu nghĩa của Như Lai, chẳng rõ huyền cơ của Đạt
Ma, bụng rỗng lòng cao, tập quen thành bệnh cuồng
vọng. Khi thấy người tu Tịnh Độ, họ khinh thường và
cười bảo: 'Đó là việc làm thấp kém của hàng ngu phu
ngu phụ!' Tôi thường cho đó không phải khinh hạng
ngu phụ ngu phu, mà chính là khinh các Ngài Văn Thù,
Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ; đó chẳng những tự mê
chánh đạo, tự làm mất căn lành mà còn tự bỏ quên huệ
thân và tự để tiêu Phật chủng. Đó cũng là tự gây ra
tội báng Chánh Pháp, tự kết thành nghiệp khinh Thánh
Tăng. Chư Phật, Tổ xem những kẻ ấy là hạng người
đáng thương xót! Vì lẽ ấy nên Ngài Vĩnh Minh động
mối bi tâm đem hết tâm can chủ trương Tịnh Độ, đã tự
tu lại khuyên đời. Nên khi lâm chung, Đại Sư biết
trước ngày giờ, có các điềm lành ứng hiện; lúc trà
tỳ xá lợi tuôn ra vô số. Về sau có một vị tăng ở Phủ
Châu thường cung kính đi nhiễu xung quanh tháp của
ngài, nhiều người hỏi lý do thì vị tăng ấy đáp: 'Nhân
lúc tôi bị bịnh nặng thần thức đi vào minh giới,
Diêm Vương xét thấy thọ số chưa mãn, cho đưa trở về.
Khi ấy tôi thấy bên phía tả đại điện có thiết bàn
thờ di tượng một vị Đại Đức, Diêm Vương lễ bái ân
cần. Hỏi ra thì Quan Chủ lại bảo đó là chân dung của
Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư, vì ngài tu hành tinh
tấn, được sanh về Thượng Phẩm ở Cực Lạc, nên Diêm
Vương họa tượng để thờ.' Vĩnh Minh Đại Sư là bậc đã
ngộ suốt môn thiền trực chỉ của tổ Đạt Ma, mà lại
gởi chất nơi phẩm sen thượng thượng bên trời An
Dưỡng; những sự kiện ấy đủ giải thích mối tình chấp
của người tu thiền, còn làm duyên khuyến tấn cho
chúng sanh đời mạt pháp. Cho nên tôi nói ngài rất có
công đối với bên tông cũng như bên giáo là ở điểm
nầy.