Ghét bèn đáp một bài kệ rằng:
Ghét thương phải quấy biết bao là ,
Xét nét lo lường giữ lấy ta;
Tâm để rỗng thông thường nhẫn nhục ,
Bữa hằng thong thả phải tiêu ma;
Nếu người tri kỷ nên y phận ,
Dẫu kẻ oan gia cũng cộng hòa;
Miễn tấm long nầy không quái ngại ,
Tự nhiên chứng đặng “Lục ba la”.
Ông Trần cư sĩ lại hỏi rằng : “Bạch Hòa thượng ! Ngài có pháp hiệu hay không?”
Ngài liền đọc bài kệ đáp rằng:
Ta có cái túi vải ,
Mở ra khắp mười phương
Thâu vào Quan tự tại .
Ông Trần cư sĩ hỏi rằng : “Hòa thượng đi đây có đem đồ hành lý hay không ?”
Ngài đáp bài kệ :
Bình bát cơm ngàn nhà ,
Thân chơi muôn dặm xa;
Mắt xanh xem người thế ,
Mây trắng hỏi đười qua .
Ông Trần cư sĩ thưa : “Đệ tử rất ngu lổ, biết làm sao cho đặng thấy tánh Phật”.
Ngài bèn đáp bài kệ :
Phật tức tâm, tâm ấy là Phật,
Mười phương thế giới là linh vật;
Tung hoành diệu dụng biết bao nhiêu,
Cả thảy chẳng bằng tâm chân thật .
Ông Trần cư sĩ thưa rằng:”Hòa thượng đi lần này nên ở nơi chùa, chớ đừng ở nhà thế gian.
Ngài bèn đáp bài kệ rằng :
Ta có nhà Tam bảo,
Trong vốn không sắc tướng ;
Chẳng cao cũng chẳng đê,
Không ngăn và không chướng;
Học vẫn khó làm bằng,
Cầu thì không thấy dạng;
Người trí biết rõ rang,
Ngàn đời không tạo đặng;
Bốn môn bốn quả sanh,
Mười phương đều cúng dường.
Ông trần cư sĩ nghe bài kệ lấy làm lạ , liền đảnh lễ Ngài mà thưa rằng:”Xin Hòa thượng ở nán lại một đêm mà dung cơm chay với tôi , đặng tỏ dấu đệ tử hết long cung kính, xin Ngài từ bi mà hạ cố “.
Đêm ấy , Ngài ở tại nhà Trần cư sĩ . Đến khi đi , thì Ngài viết một bài kệ dán nơi cửa .
Ta có một thân Phật ,
Có ai đặng tường tất;
Chẳng vẽ cũng chẳng tô,
Không chạm cũng không khắc;
Chẳng có chút đất bùn,
Không phải màu thể sắc;
Thợ vẽ, vẽ không xong,
Kẻ trộm , trộm chẳng mất ;
Thể tướng vốn tự nhiên ,
Thanh tịnh trong vặc vặc;
Tuy là có một thân
Phân đến ngàn trăm ức .
Khi Ngài đi đến quận Tứ Minh , Ngài thường giao du với ông Tưởng Tôn Bá một cách rất thân mật ; Ngài có khuyên bảo ông mỗi ngày trì niệm câu chú : “Ma ha bát nhã ba la mật đa” . Vì vậy người ta đều kêu ông Tưởng Tôn Bá là: Ma Ha cư sĩ .
Có một ngày nọ , ông Ma Ha cư sĩ cùng Ngài đồng tắm dưới khe Trường Đinh. Khi Ngài đưa lưng bảo ông Ma Ha kỳ giùm , thì ông thấy nơi lưng Ngài có bốn con mắt rực rỡ chói lòa, bèn lấy làm kinh dị vô cùng . Ông liền đảnh lễ Ngài mà nói rằng: “Hòa thượng quả là một vị Phật tái thế “.
Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng: “Ngươi chớ nói tiết lậu . Ta cùng ngươi ở với nhau đã ba bốn năm nay, vốn là có nhân duyên rất lớn , rồi đây ta sẽ từ biệt ngươi mà đi , vậy ngươi chớ buồn rầu thương nhớ “.
Ngài nói rồi , bèn về nhà ông Ma Ha cư sĩ hỏi rằng : “Ý ngươi có muốn giàu sang hay không ?”
Ông Ma Ha cư sĩ thưa rằng: “Sự giàu sang như lùm cây nổi, như giấc chiêm bao , có cái gì là bền lâu chắc chắn đâu ; nên tôi nguyện làm sao cho con cháu tôi đời đời được mien viễn mà thôi “.
Ngài bèn lấy cái túi của Ngài thọc tay vào móc ra một cái túi nhỏ, một cái hộp, và một sợi dây , liền đưa cho ông Ma Ha cư sĩ mà nói rằng:”Ta cho ngươi mâ”y vật này mà từ biệt . Song ta căn dặn ngươi phải gìn giữ cho thật kỹ càng mà làm biểu tín những việc hậu vận của nhà ngươi “
Ông Ma Ha cư sĩ vâng lãnh mấy món ấy mà chẳng rõ được là ý gì . Cách vài bữa sau Ngài trở lại nhà ông mà hỏi rằng: “Nhà ngươi có hiểu được ý ta hay không?”
Ông thưa rằng: “Thưa Ngài ! Đệ tử thiệt chẳng rõ”.
Ngài nói rằng : “Đó là ta muốn con cháu nhà ngươi ngày sau cũng như mấy vật của ta cho đó vậy”.
Nói rồi , Ngài bèn từ giã mà đi liền .
Đến sau , quả nhiên con cháu của ông Ma Ha cư sĩ được vinh hoa phú quí, hưỡng lộc nước đời đời . Đó là mấy vật của Ngài cho có hiệu nghiệm như vậy .
Nhằm ngày mùng ba tháng Ba, năm thứ ba niên hiệu Trinh Minh, Ngài không tật bệnh gì cả, ngồi trên bàn thạch, gần nơi mái chùa Nhạc Lâm mà nhập diệt.
Nhắc lại khi Ngài chưa nhập diệt, có ông Trấn Đình Trưởng thấy Ngài hay khôi hài kgì cả , nên mỗi lần gặp Ngài thì buông lời cấu nhục , rồi giựt cái túi vải mà đốt.
Hễ bữa nay đốt rồi , thì qua ngày sau ông Trấn Đình trưởng cũng thấy Ngài mang cái túi ấy như cũ . Ông nổi giận đốt cháy rụi luôn đến ba lần , cũng vẫn thấy Ngài còn mang cái túi vải đó .
Từ đó về sau, ông Trấn Đình Trưởng lấy làm lạ , nên đem lòng khâm phục Ngài không dám khinh dể nữa .
Khi Ngài nhập diệt, thì ông Trấn Đình Trưởng lo mua quan quách mà tẩm liệm thi hài , là cố ý chuộc tội lỗi của ông ngày trước . Nhưng đến chừng đi chôn, thì người khiêng rất đông, mà cử cái quan tài lên không nổi .
Trong bọn ấy có một người họ Đồng, ngày thường tỏ long tôn kính ngài một cách rất trọng hậu; nên thấy việc linh hiển như vậy , liền vội vã mua cái quan tài khác , rồi liệm thi hài của Ngài lại . Đến khi khiêng đi , thì số người cũng bấy nhiêu đó, mà khiêng nhẹ phơi phới như bông. Ai nấy thấy vậy cũng đều kinh sợ và cung kính .
Lúc đó, các người trong quận thiết lập ra một hội rất lớn , xây tháp cho Ngài ở núi Phong sơn . Núi ấy toàn là đá lởm chởm , hòn cao hòn thấp , trong mấy hang đá đều là chỗ di tích của Ngài còn lưu truyền lại, nào là chỗ để tích trượng, nào là chỗ để bình bát , vân vân . . .
Những chỗ sâu , chỗ cạn , chỗ lớn , chỗ nhỏ , hình tượng giống như cái bình bát , đều có nước đầy hoài ; dẫu cho trời đại hạn đi nữa , thì cũng chẳng có lúc nào khô kiệt .
Thiệt là nhiều việc anh linh hiển hách vô cùng!