[16] Hai vô ngã: là nhân không và pháp không, hoặc nhân vô ngã và pháp vô ngã.
1. Nhân vô ngã: thân người đều do năm ấm giả hợp tạo thành không có chủ thể chân thật. Đó là pháp quán của Tiểu Thừa nhằm đoạn trừ phiền não chướng đạt được Niết-bàn.
2. Pháp vô ngã: các pháp đều do nhân duyên sinh vốn không có tự tính. Đó là pháp quán của hành Đại Thừa Bồ-tát để đoạn trừ sở tri chướng, được quả vị Bồ-tát (Kinh Lăng-Già, q. 1).
[17] Thắng tấn phần: tu tập hạnh tự lợi gọi là Tự phần, tu tập hạnh lợi tha gọi là Thắng tấn phần.
[18] Nhị chướng: hai sự chướng ngại, Phiền não chướng và Sở tri chướng. Phiền não chướng là do chấp ngã mà sinh ra, vì tất cả các hoặc tham, sân, si phát nghiệp nhuận sinh phiền não thân tâm chúng sinh, khiến sinh tử mãi trong ba cõi, năm đường, chướng ngại quả Niết-bàn. Sở tri chướng, do chấp pháp mà sinh ra, vì các hoặc tham, sân, si làm cho mê mờ, chướng ngại diệu trí Bồ-đề, khiến không thể rõ biết sự tướng và thật tính của các pháp (Luận Thành Duy Thức, q. 9).
[19] Sử: là tên khác của phiền não. Vì phiền não dẵn dắt con người chìm đắm trong cõi mê, cho nên gọi phiền não là Sử.
[20] Kết: Kết Sử, trói buộc chỉ cho phiền não. Vì phiền não trói buộc chúng sinh vào cảnh mê, khiến không thể thoát khỏi cái khổ sinh tử.
[21]b> Năm biến hành: năm món tâm sở là Xúc, Tác, Ý, Thọ, Tưởng và Tư. Năm tâm sở này có mặt cùng khắp, vì đầy đủ bốn nghĩa: Nhất thiết tính là thông cả ba tính thiện, ác và vô ký. Nhất thiết xứ là thông cả ba tính thiện, ác và vô ký. Nhất thiết xứ là thông cả ba cõi chín địa. Nhất thiết thời là có mặt ở tất cả mọi thời gian. Nhất thiết câu là một pháp sinh khởi thì các pháp kia đều sinh khởi theo.