V - CỨU
CÁNH TỪ BI
Lòng từ
bi được viên mãn khi nào mọi vọng thức không còn. Vì
vọng thức chạy theo nghiệp phân biệt có yêu có ghét,
khó mang tình thương chân thật bình đẳng lại cho
chúng sinh. Khi nghiệp thức đã sạch, chỉ một tâm thể
thênh thang bình đẳng bao trùm tất cả chúng sinh,
không phân biệt ngã nhân bỉ thử, làm gì có thương
ghét nảy sinh. Sống với tâm thể này chỉ tràn trề
lênh láng một tình thương. Tình thương không phân
biệt, không còn chủ khách đối đãi, bao dung không
giới hạn, mới là tình thương chân thật hay viên mãn
lòng từ bi. Còn thấy đối đãi là còn phân biệt, còn
dụng công, mọi sự đối đãi đã tiêu dung, biết lấy đâu
làm giới hạn. Cho nên ví lòng từ bi thênh thang như
trời cao, bát ngát như bể cả. Từ bi trong chỗ không
phân biệt không dụng công nên gọi là vô duyên từ.
VI -
KẾT LUẬN
Từ bi
là tình thương hoàn toàn bất vụ lợi. Bọn ác quỷ sân
hận tham lam tật đố gặp từ bi đều chắp tay quỳ gối
quy hàng. Có mặt từ bi ở đâu thì mọi khổ đau tan
biến ở đó. Từ bi ngọt ngào như dòng sữa mẹ, từ bi
mát nhẹ như dòng gió chiều thu, từ bi trong sáng như
ánh trăng rằm, từ bi phát sinh muôn ngàn công đức
như lòng đất phì nhiêu nuôi dưỡng vạn vật. Chúng ta
tôn trọng kính mến những ai đã mang sẵn lòng từ bi,
tán thán ca ngợi ai phát tâm từ bi, ước mơ mong mỏi
ai sẽ học tập từ bi. Mọi người chúng ta gắng công
khơi dậy dòng suối từ bi, để một ngày kia chảy tràn
ngập trần gian đang nhiệt não. Hạnh phúc ở nhân gian
nếu có, khi nào nguồn nước từ bi tràn về. Tất cả
chúng ta đừng mong đấng nào cứu khổ, chỉ chắp tay
cầu nguyện mọi người hãy phát tâm từ bi. Ngọn lửa
khổ đau dập tắt, khi được trận mưa từ gội nhuần.
Chân thành mong ước mọi người đều phát lòng từ bi.
KẾT LUẬN
Những
vấn đề đã trình bày qua, chúng tôi cố gắng trong một
khuôn khổ rất nhỏ hẹp, giống như việc “lấy thúng úp
voi”, khó tránh khỏi lỗi khó hiểu và thiếu sót.
Chúng tôi chỉ mong độc giả nhận được then chốt của
mỗi vấn đề, cần đi sâu vài chi tiết, sẽ nhờ những
quyển kinh sách khác, hoặc nhờ sự dắt dẫn của Tăng
NI hay Thiện Hữu. Tóm lại then chốt thiết yếu có thể
nói:
Phật là
người đã giác ngộ và giải thoát sinh tử, đó là vị
trí căn bản của Ngài. Chúng ta đừng xê dịch, đừng tô
điểm, đừng ép buộc Ngài phải rời chỗ căn bản ấy.
Phật
pháp là những lời giảng dạy chỉ ra lẽ thật: Lẽ thật
trên hình tướng sự vật là nhân quả, lẽ thật trong sự
cấu tạo kết hợp là duyên sinh, lẽ thật thầm lặng
trong bản thể là chân không hay Phật tánh.
Học
Phật là tiến bước trên con đường giác ngộï, là nhận
hiểu phán xét những lẽ thật của Phật dạy, đem chỗ
nhận hiểu ứng dụng vào cuộc sống của con người. Thực
hiện được những điều này, cần nhờ cặp mắt trí tuệ
sáng suốt mới thành công.
Tu Phật
là ứng dụng những lẽ thật đã nhận xét vào cuộc sống
hằng ngày của mình. Gỡ sạch mọi phiền não kiến chấp
đang trói buộc khắn chặt trong tâm tư của chúng ta,
đem lại sự an lạc ngay trong hiện tại và miên viễn ở
vị lai. Chẳng những thế, tu Phật còn có nghĩa vượt
ra ngoài vòng đối đãi sinh diệt, thoát khỏi mọi
khuôn khổ hạn buộc, làm người tự do tự tại.
Với
những điểm chủ yếu trên, chúng ta nhận thức chắc
chắn sâu xa, là trong tay đã có sẵn ngọn đuốc sáng,
trên con đường về quê ắt không đến nỗi lạc lầm. Giá
trị của Phật pháp là biết để hành, không phải biết
để nói. Thật hành sâu chừng nào, càng thấy giá trị
Phật pháp cao chừng ấy. Biết để nói, là người trình
bày đủ mọi thức ăn, mà bụng vẫn đói; là nhân viên
phát ngân trong ngân hàng cả ngày đếm tiền, khi ra
về chỉ hai tay không. Chúng tôi ước mong độc giả của
quyển sách này không đến nỗi như thế.