Nghe xong, ông trưởng giả quát to lên: Rằng hay thì thật là hay, nhưng ta không ưa Phật pháp, oán ghét tăng, ni, chẳng thích Bồ-Tát, không chịu Bồ-Đề. Sao người cứ dùng những danh từ ấy mãi? Lại nữa người nói người không phải nhà Sư, sao rất thuộc những danh từ Phật pháp?
- Thưa Cụ, vì cháu ở gần chùa thường nghe chư Tăng đọc kinh tự nhiên thấm nhiễm thôi, chớ thật không phải nhà Sư. Nếu cháu thật nhà Sư thì đâu có dự thi như thế nầy.
- Thôi người đừng nói chi nhiều lời hãy nằm xuống đây chịu đánh 30 roi, rồi ta sẽ cho làm bài khác.
- Thưa Cụ, xin Cụ hãy xét kỹ mà dung thứ cho cháu. Cụ chỉ cấm không cho nói tới Phật và Như Lai, thì cháu không nói đến hai danh từ đó chớ Cụ đâu có cấm dùng danh từ Bồ-Tát hay Bồ-Đề. Lại nữa, Cụ bảo làm thi trong tức khắc, chỉ đâu phải đọc liền đó, không cho cháu được một phút suy nghĩ, trong lúc cấp bách lựa lời chẳng kịp, vì túng vãn nên cháu nói lỡ như thế, xin Cụ mở lượng khoan hồng mà dung thứ cho.
Ông trưởng giả nghe chàng phân trần cũng phải, nên cơn nóng giận dịu xuống, bèn tha thứ cho chàng. Lúc bấy giờ ông chỉ ngay bức tranh vẽ hình con cọp treo trên vách và bảo làm thi.
Chàng liền ứng khẩu ngâm rằng:
Bích trung hữu nhứt hổ
Thân ly tam xích thổ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ.
Dịch nghĩa:
Trên tường có con hổ
Thân cách đất ba thước
Trên báo bốn ơn dày
Dưới cứu ba đường khổ.
Kinh Kim-Cang Bát-Nhã là một quyển kinh mà ông Trưởng giả đã thuộc làu. Trong bài thi nầy chàng dùng hai câu “Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” là hai câu kệ trong kinh Kim-Cang, vì chàng muốn thức tỉnh cho ông trưởng giả luôn luôn nhớ lại Phật pháp. Nhưng trái lại, khi nghe đến hai câu kinh làm cho ông trưởng giả thêm khêu gợi lại lửa hờn xưa, vì ông nhớ bởi tụng kinh nầy mà ba đứa con trai của ông bị chết!
Lúc bấy giờ ông nổi giận lôi đình, la quát om sòm, lần nầy quyết định không tha. Ông bảo: “Nằm xuống! Nằm xuống! Đã ba lần rồi, lần nào ngươi cũng dùng đến danh từ trong kinh Phật, khêu gợi sự tức giận của ta.”
Tay ông vừa đánh và miệng vừa la mắng, đập một hơi không biết mấy chục roi. Thấy thế, động mối từ tâm, nên Lan Phương là con gái ông bước đến khuyên rằng:
- Thôi cha! ... Thôi cha! ... Vì người ta ở gần chùa chiền thấm nhiễm đạo Phật đã lâu, hôm nay chỉ trong tức khắc, Cha bảo họ phải bỏ hết những cái gì mà người ta đã thấm nhiễm, thì không thể được, để sau về ở nhà mình, lần hồi dạy dỗ, chàng sẽ làm được vừa lòng cha. Cha không nhớ Cổ nhân dạy: "Cận châu giã xích, cận mặc giã hắc" hay sao? (gần son thì đỏ, gần mực thì đen). Hơn nữa đã hơn một năm rồi, không biết bao nhiêu nhà thi sĩ văn nhân vào thi, song rốt cuộc đều bị đòn đi ra, không có một người nào tài hay lỗi lạc như anh nầy. Cha chỉ đâu thì anh ứng khẩu ngâm thi liền đến đó, không cần suy nghĩ, rất bặt thiệp, làm thi trong chớp nhoáng, nếu cha còn chê nữa thì con chắc chắn cha không tìm được một người nào hơn nữa.
Nói xong cô bèn trở vào phòng.
Sau mấy lời can gián, cơn nóng giận dịu lần, ông trưởng giả nghĩ thầm có lẽ con mình đã thương chàng nầy nên ông cũng chìu theo ý muốn của con, tha đánh và bảo chàng đứng dậy.
Khi đó ông trưởng giả ngồi suy nghĩ: Con mình nói cũng phải, đã hơn một năm rồi, không biết bao nhiêu tài sĩ văn nhân vào thi, nhưng không có một người nào tài hay bặt thiệp và văn chương hay tuyệt như chàng nầy. Đã ba bài rồi, bài nào cũng xuất sắc, chỉ có một điều, chàng thấm nhiễm đạo Phật đã lâu, nên từ ngôn ngữ cho đến điệu bộ cũng đều nhuộm màu sắc Phật giáo. Nhưng nếu ta cố chấp và gắt gao thế nầy mãi thì chắc không có một người nào được hoàn toàn theo ý muốn, rốt cuộc rồi con ta phải côi cút và lạnh lẽo suốt đời! Thôi ta hãy châm chế và dễ dãi bớt đi, để cho con ta được vui lòng.
Khi đó Lan Phương ở trong phòng phía đông, vừa khoát màn bước ra, diện mạo sáng rỡ như mặt nhựt, điệu bộ khoan thai và thùy mị. Ông liền chỉ ngay vào Lan Phương và bảo chàng làm thi.
Chàng kính cẩn khép nép và ứng khẩu ngâm:
Nhựt xuất hướng đông phương
Diện như minh kính trương
Dung nhan thậm kỳ diệu
Phổ chiếu biến thập phương
Dịch nghĩa:
Mặt nhựt mọc hướng Đông
Diện mạo tợ gương trong
Dung nhan thật kỳ diệu
Soi sáng khắp mười phương.
Lần nầy có phần êm dịu hơn các lần trước. Ông trưởng giả nghe xong có hơi tức giận, nhưng vẫn còn giữ được thái độ điềm tĩnh vì ông nghĩ thầm rằng: "Do ở gần chùa, chàng bị thấm nhiễm lâu ngày, nên mỗi bài thi đều bị ảnh hưởng đến Phật giáo chớ có lý nào chàng muốn chọc ta mãi như thế?"
Ông ôn tồn hỏi tiếp:
- Nầy cháu! Bác hỏi thật cháu: Vậy thân thế cháu có phải là nhà Sư chăng?
- Không, thưa Cụ.
- Nếu không phải nhà Sư, sao cháu biết kinh Phật, và trong mỗi bài thi cháu đều dùng những câu kinh, tỏ ra người rất thông Đạo Phật?
- Thưa Cụ, cháu đã thưa: Nhà cháu ở gần chùa Phật, sớm chiều cháu thường được nghe các thầy tụng kinh bái sám, với những giọng hòa huởn êm dịu và thanh thoát, khi bỗng khi trầm, lúc khoan lúc nhặt; thỉnh thoảng điểm một vài tiếng chuông, ngân nga trong cõi không gian tịch mịch, để đánh thức người say mê trong cảnh mộng, một vài tiếng mõ kêu sương trong đêm khuya thanh vắng, để gọi ai còn say ngủ trong đêm trường. Vì quá thích thú với mùi Thiền, nên cháu để ý thuộc được các bài kinh ấy. Thú thật, cháu không phải là tu sĩ.