[25] Thắng cảnh: ở đây là chỉ cho cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.
[26] Tử ma kim: cũng gọi là Tử ma huỳnh kim, hoặc Tử kim tức là vàng ròng, là loại vàng tốt và quý nhất, đồng với vàng Diêm-phù-đàn ở Ấn Độ. Thân Phật là thân có màu Tử ma kim, có tướng nhẫn nhục mềm mại, gọi là “Tử ma nhẫn nhục” (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4920).
[27] Tứ thiên vương (Tứ Đại vương chúng thiên. Tứ Thiên vương thiên, Tứ Đại Thiên vương chúng thiên): tầng trời thứ nhất trong sáu tầng trời ở cõi Dục, tầng trời đầu tiên trong các Thiên xứ. Trong thế giới quan của Phật giáo, ở tầng trời thứ tư của núi Tu-di có một ngọn núi tên Do-kiên-đà-la, núi có bốn đảnh. Tứ Thiên vương và bộ chúng của mỗi vị đều ở một trong bốn ngọn và đều trấn hộ một cõi nước, một châu, nên gọi là Hộ Thế Tứ Thiên vương, Tứ Trấn. Chỗ ở của bốn vị này là “Tứ Vương thiên”. Tứ Thiên vương gồm: Trì Quốc thiên ở phía Đông; Tăng Trưởng thiên ở phía Nam; Quảng Mục thiên ở phía Tây; Đa Văn thiên ở phía Bắc. Tứ Vương thiên và Đao-lợi thiên gọi chung là Tứ Vương Đao-lợi (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4877).
[28] Na-do-tha: danh từ số lượng của Ấn Độ… Theo luận Câu-xá, q. 12 thì 1 na-do-tha = 100 a-dữu đa, 1 a-dữu-đa = 10 ức, cho nên 1 na-do-tha = 1000 ức. Trong kinh Phật thường dùng từ ngữ na-do-tha để nói về số lượng cực lớn (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2762).
[29] A-tăng-kỳ: một đơn vị số lượng của Ấn Độ, là số cực lớn, chẳng thể tính đếm được. Theo cách đọc thì một a-tăng-kỳ = 10 lũy thừa 47. Trong 60 đơn vị số mục ở Ấn Độ thì a-tăng-kỳ số thứ 52 (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 56).