Vóc bào ảnh lắm người yêu tiếc,
Yêu
tiếc thân cho thiệt vì thân,
Cuộc vui những ước vô ngần,
Nào
hay vui vẫn là nhân chác sầu !
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Chất huyễn hư giọt lộ lồng hoa,
Đôi
mươi trẻ, chín mươi già,
Số
phần yểu thọ khó qua vô thường.
Dép
dưới giường, lên giường vội biệt,
Sống ngày nay, dễ biết ngày mai?
Mạng người hô hấp kinh thay !
Nghĩ cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau.
Xót
duyên kiếp vì sao ngắn ngủi?
Chấp thân chi để tủi cho thân,
Da
bao những thịt xương gân,
Xác
nầy dường thể đống phân sạch gì ?
Tóc,
răng, móng khác chi đất bợn,
Mũi,
dãi, đàm nên tởm xiết bao !
Bên
ngoài rệp đút muỗi đeo,
Bên
trong sán, lãi lẫn vào nhớp chưa ?
Nỗi
nóng bức ngày trưa tiết hạ,
Cơn
lạnh lùng, đêm giá trời đông,
Xét
thân nhơ khổ vô cùng,
Dứt
lòng tham luyến, khởi lòng thoát ly.
Trách người thế mê chi lắm nhẽ,
Sánh phong lưu phô vẻ y quan,
Kẻ
khờ cũng học đài trang,
Để
lòng điên đảo theo đàng sắc thanh.
Đầu
xương sọ cài trâm thắt lụa,
Đãy
da hôi ướp xạ xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương,
Chỉ
tuồng che lớp vô thường hôi tanh.
Những mảng tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm
cơ mưu đeo đuổi yên hoa,
Ngờ
đâu tai điếc, mắt lòa,
Diêm Vương sắp rước đến tòa U minh.
Làn
tóc bạc đưa tin quỉ sứ,
Gốc
răng long điềm chỉ qui âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm,
Càng thêm đọa lạc càng lầm mà thôi.
Cuộc hành lạc một thời thương tiếc,
Nẻo
luân hồi muôn kiếp đắng cay,
Đến
khi sắp xuống diêm đài,
Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời.
Vợ
lưu luyến đầy vơi giọt lệ,
Con
thảm thương kể lể khóc than,
Dù
cho quyến thuộc trăm ngàn,
Có
ai thay thế cho chàng được chăng ?
Kẻ
sống ở nặng quằn gánh tủi,
Người chết đi dong ruổi phách hồn,
Đường âm mờ tựa đêm hôm,
Trông ra quạnh quẽ bồn chồn thảm thê.
Nại
hà đến lạnh tê gió lốc,
Quỉ
môn sang ghê gốc tiếng thương,
Bảy
ngày lìa quá cõi dương,
Âm
ty đã trải trăm đường hỏi tra.
Tòa
quan xử thét la chẳng vị,
Ngục tốt hờm tay chủy, tay xoa,
Đài
gương nghiệp cảnh sáng lòa.
Soi
tường thiện ác chối qua được nào.
Người nhân đức cho vào cửa phước,
Kẻ
hung hoang giải trước hình ty,
Đọa
đày khổ sở xiết chi,
Mới
hay nhân quả mấy khi sai lầm.
Rừng đao kiếm bao năm hết tội,
Kiếp sừng lông nhiều nỗi đa mang,
Trả
đền cho dứt nghiệp oan,
Mới
mong thoát khỏi con đàng long đong.
Dù
ai có to lòng, lớn mật,
Mặc
chàng hay báng Phật khinh Tăng,
Chẳng qua đối trước Diêm quân,
Cúi
đầu co gối chịu phần xử tra.
Hồn
phách đã xa chơi âm giới,
Thi
hài còn ở cõi dương gian,
Có
tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Chất da thịt sẽ cùng tan rã.
Tấm
hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ
trong chầy sớm mà thôi,
Chầy năm bảy tháng sớm thời ít hôm.
Nét
kiều diễm chập chờn xuân mộng,
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân,
Khi
xưa tài sắc mười phân,
Mà
nay một nắm cô phần lạnh tanh.
Thời oanh liệt hùng anh đâu tá,
Cuộc ái ân hư giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì,
Giấy tiền treo đó dường ghi mối sầu.
Bóng chiều rũ xuống mầu cỏ biếc,
Bia
mồ trơ một chiếc vắng không,
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Đời
người đến thế là xong một đời !
Ví
chẳng biết tìm nơi giải thoát,
Nương về ngôi Chánh giác qui y,
Luân hồi hẳn dứt có khi,
Bên
trời Bát Nhã còn chi lo phiền.
Lối
ma quỉ đừng riêng mưu sống,
Đất
từ bi gieo giống hoa Đàm,
Giữ
lòng thiện, dứt lòng tham,
Gái,
trai, Tăng, tục đều kham tu hành.
Rõ
cảnh mộng chớ quanh đường mộng,
Biết miền chơn, kíp chóng tu chơn,
Dần
dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
Sáu
chữ Phật cùng nhau gắng niệm,
Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh,
Chớ
nên mình phụ lấy mình,
Trách sao Diêm lão vô tình chẳng dung.
Bỏ
điều ác xin làm theo thiện,
Chừa lỗi xưa tu tiến đường sau,
Lại
vì quyến thuộc bảo nhau,
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.
Khiến mỗi kẻ đồng qui bến giác,
Cho
mọi người đều thoát sông mê,
Dù
trong lao khổ dám nề,
Đài
sen đốt mảnh hương thề nguyền xin...
Nguyền xin dốc tưởng tin lời Thánh.
Dám
để cho rỗi rảnh ưu du,
Kiếp nầy chẳng gắng chuyên tu,
Còn
e kiếp khác công phu lỡ làng.
- Trích "kinh Nhựt Tụng Sen Vàng" ấn bản - Chùa Ấn Quang 1968. Đối chiếu "Liên Hoàn Sám nguyện" Sa Môn Thích Thiện Tâm - Sa Đéc 1961.