Thập phương diễn nghĩa một trương,
Ai
dùng thời chép để thường tụng kinh.
Tụng rồi quỳ trước Phật đình,
Âm
thanh tán thán độ mình nhiều phương,
Phật truyền khắp hết mười phương,
Thấy trong ba cõi cảm thương vô cùng.
Chín từng hoa nở đơm bông,
Các
hàng Phật tử phụng rồng xung quanh.
Con
nay sám tán hiệu danh,
Mãn
duyên thời đặng chẳng thành lẽ đâu,
Tấm
lòng chí quyết kính cầu,
Trước thời tưởng Phật sau hầu về Tây.
Muốn cho trả đặng ơn dày,
Phải toan thẳng đến tầm Thầy cầu duyên.
Bổn
sư là Phật hiện tiền,
Đạo
làm đệ tử cầu nguyền hỏi han,
Nhờ
Thầy chỉ dẫn Tây phang.
Thành công đắc quả biết đàng mà đi,
Bồ
đề là đạo từ bi.
Liễu đường sanh tử hết nghi tấm lòng,
Chớ
đừng trễ nải long đong,
Dứt
tâm phiền não chứa lòng pháp môn.
Di
Đà đức Phật Thế Tôn,
Từ
bi độ chúng không môn thẳng vào.
Lời
Phật như thể non cao,
Ai
mà theo Phật khỏi vào Diêm La.
Trời cao đất rộng hằng sa,
Hư
không mòn hết nguyện ta còn hoài.
Một
là lạy Phật hôm nay,
Các
vì chư Phật kim đài chứng tri.
Hai
là thọ phái quy y,
Thích Ca Văn Phật Mâu Ni độ đời.
Ba
là tín nhiệm Phật trời,
Chúa tôi phải đạo đáng nơi cúng dường.
Bốn
là lạy Phật mười phương,
Xin
cho nghiệp chướng tai ương lánh mình.
Năm
là các vị thần linh,
Vui
cười cả thảy quỉ tinh yêu tà.
Sáu
là với huyễn thân ta,
Linh hồn theo Phật liên hoa hiền tiền.
Bảy
là lạy Phật ở yên,
Dứt
đường sanh tử lưu truyền hưng long.
Tám
là Phật ở nơi trong,
Phàm tình chẳng thấy, dẫy đầy Phật đâu.
Chín là tỏ đặng pháp mầu,
Trường sanh bất tử độ đời chúng sanh.
Mười là bỏ dữ làm lành,
Khắp trong sa giới quốc thành đặng an.
Tôn
sư diễn nghĩa ít hàng,
Cầu
cho bá tánh Tây phương mau về.
- Bài sám Thập phương diễn nghĩa nầy do Tổ
Huệ Đăng trước tác - Theo lời xác nhận của Hòa
thượng Pháp Lan chùa Khánh Hưng TPHCM. Vào
khoảng năm - 1930 tại chùa Thiên Thai - Bà Rịa.
-
Biên giả cho mã số diễn nghĩa là III.