Đạo tràng nghi ngút khói hương,
Mười phương chư Phật xót thương muônngàn,
Phật đài cao tột nghiêm trang,
Chúng con Phật tử hai hàng cầu siêu.
Cầu
cho vong giả nghiệp tiêu,
Dứt
điều oan báo, đủ điều phước duyên.
Cầu
trên chư Phật hiện tiền,
Độ
cho vong giả về miền Lạc bang.
Ví
dầu vong lắm nghiệp oan,
Nhờ
ơn chư Phật dứt đàng tử sinh,
Vô
thường chi phối thình lình,
Làm
cho người thế hồn kinh phách tà.
Mong cầu đức Phật Di Đà,
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang.
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng,
Dắt
hồn ra khỏi sáu đường nghiệp nhân.
Quán Âm Bồ Tát hóa thân,
Tay
cầm nhành liễu tay bưng kim đài,
Theo cùng Thế Chí các Ngài,
Thảy đều tiếp độ lên ngai sen vàng.
Sẵn
sàng bảo cái tràng phan,
Có
mùi hương lạ có đàng ngọc xây,
Các
trời đứng sẵn trên mây,
Nghe rền thiên nhạc đi ngay một đường.
Hồn
về đến cõi Tây phương,
Thấy ao thất bảo với hương ngũ phần,
Lưu
ly quả đất sáng ngần,
Nước ao bát đức xoay vần chảy quanh.
Thất trân có bảy lớp thành,
Bảy
hàng cây báu bảy vành lưới châu,
Nào
là ngân các kim lâu,
Có
chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề,
Bao
nhiêu nghiệp chướng hồn mê hết liền.
Được sanh về chín phẩm sen,
Nghiệp oan dứt sạch, nhơn duyên sẵn tròn.
Di
Đà thương xót độ con,
Con
đà gặp mẹ chẳng còn lo chi,
Thất trân báu vật thiếu gì,
Dùng cơm hương tích, mặc thì áo châu,
An
vui giải thoát không sầu,
Không già, không chết có đâu luân hồi.
Tánh xưa nay đã tỏ rồi,
Gương xưa cũng đã hết hồi trần ô,
Tu
hành chẳng đợi kiếp mô,
Bỏ
tà theo chánh dứt đồ quỷ ma.
Hồn
về Cực lạc liên hoa,
Phật cùng Bồ Tát hằng hà quá đông.
Hồn
nghe pháp nhiệm tỏ lòng,
Ngộ
luôn sáu pháp thần thông nhớ hoài.
Lòng trong trí sáng ai ai,
Phước duyên công đức phép tài tự nhiên.
Hồn
về Cực lạc ở yên,
Sau
rồi trở lại hóa duyên Ta bà.
Thần thông biến hóa hiện ra,
Mười phương cứu độ, trẻ già vãng sanh.
Nguyện hồn về cõi Lạc thành,
Hoa
sen chín phẩm nêu danh tỏ tường,
Trọn lành hưởng cảnh Tây phương,
Tội
tiêu nghiệp dứt kiết tường thanh lương.
Di
Đà giáo chủ Tây phương,
Độ
vong hồn đặng lên đường Lạc bang.
- Trích từ "39 Bài sám nghĩa" và đối chiếu sửa chữa bổ sung từ "Kinh Nhựt Tụng" chùa Đại Giác - Sài gòn 1974.