Việc làm đừng mong dễ thành, vì dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo.
Ủng hộ chương trình: Trái tim cho em. Soạn tin TTCE gửi 1408, mỗi tin nhắn 16,000 đồng, được chuyển tới Quỹ để hỗ trợ mổ tim nhân đạo cho trẻ em nghèo trên toàn quốc . Chi tiết: http://traitimchoem.vtv.vn
Tìm kiếm:
Wapsite Phật học trên mobile
Để cho trang wap càng nhiều nội dung, mình sẽ thường xuyên post các vấn đề liên quan đến Phật học mà mình sưu tầm được để mọi người cùng tìm hiểu. Mình sẽ post thẳng vô trang chủ, sau mục "Thảo luận/Liên hệ Admin"!
Phát Bồ Đề Tâm có thể tóm tắt trong bốn điều hoằng thệ là: Chúng sanh vô biên thề nguyện độ. Phiền não vô tận thề nguyện dứt. Pháp môn vô lượng thề nguyện học. Phật đạo vô thượng thề nguyện thành.
Nhưng không phải chỉ nói suông: ”Tôi phát Bồ Đề tâm”, là đã phát tâm,
hay mỗi ngày tuyên đọc bốn điều hoằng thệ, gọi là đã phát Bồ Đề Tâm.
Muốn phát Bồ Đề tâm hành giả cần phải quán sát để phát tâm một cách
thiết thực, và hành động đúng tâm nguyện ấy trong đời tu của mình. Có
những Phật tử xuất gia, tại gia, mỗi ngày sau khi tụng kinh niệm Phật
đều quỳ đọc bài hồi hướng: “Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não…”,
nhưng rồi trong hành động thì trái lại: Nay tham lam, mai hờn giận, mốt
si mê biếng trễ, bữa kia nói xấu chê bai chỉ trích người, để đến bữa
khác lại có chuyện tranh cãi gây gổ buồn ghét nhau. Như thế, tam chướng
làm sao tiêu, phiền não làm sao trừ được? Chúng ta phần nhiều chỉ tu
theo hình thức ít chú trọng đến chỗ khai tâm, thành thử lửa tam độc vẫn
cháy hừng, không hưởng được hương vị thanh lương giải thoát của đức Phật
đã chỉ dạy. Cho nên ở đây cần đặt lại vấn đề “Làm thế nào để phát Bồ Đề
tâm?” Muốn cho lòng Bồ Đề phát sanh một cách thiết thật, chúng ta nên
suy tư quán sát để phát tâm theo sáu yếu điểm như sau:
• Điểm
thứ nhứt là Giác Ngộ Tâm: Chúng sanh thường chấp sắc thân này là ta, tâm
thức có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc
thân này giả dối, ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên
thân tứ đại không phải là ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp
về cái biết của sáu trần là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, như một
người trước kia dốt, nay theo học chữ Việt, tiếng Anh, khi học thành, có
cái biết về chữ Việt, tiếng Anh. Lại như một kẻ chưa biết Ba Lê, sau
một dịp sang Pháp du ngoạn, thu nhập hình ảnh của thành phố ấy vào tâm.
Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức liền hiện rõ quang
cảnh của đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận
vào nên tạm có, sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến
tan mất hẳn, trở về không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh
này tiêu, hình ảnh khác hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư
giả không thật, nên chẳng phải là ta. Cổ đức đã bảo:: “Thân như bọt tụ,
tâm như gió. Huyễn hiện vô căn, không tánh thật.” Nếu giác ngộ thân tâm
như huyễn, không chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới “ nhơn không”
chẳng còn ngã tướng. Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác
cũng không, nên không có nhơn tướng. Cái ta của mình và người đã không,
tất cái ta của vô lượng chúng sanh cũng không, nên không có chúng sanh
tướng. Cái ta đã không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật có ai
chứng đắc, cho đến cảnh chứng thường trụ vĩnh cữu của Niết Bàn cũng
không, nên không có thọ giả tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng phải không
có thật thể chân ngã của tánh Chân Như thường trụ, nhưng vì thánh giả
không chấp trước, nên thể ấy thành không. Nhơn đã không thì Pháp cũng
không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Đây lại
cần nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà
vì nó hư huyễn, nên đương thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. Cho nên
cổ đức đã bảo: “Cần chi đợi hoa rụng. Mới biết sắc là không.” (Hà tu đải hoa lạc. Nhiên hậu thỉ tri không)
Hành giả khi đã giác ngộ Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh
tịnh trong sáng không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như
thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
• Điểm thứ hai là
Bình Đẳng Tâm: Trong Khế Kinh, đức Phật khuyên dạy: “Tất cả chúng sanh
đều có Phật tánh là cha mẹ đời quá khứ và chư Phật đời vị lai.” Chư Phật
thấy chúng sanh là Phật, nên dùng tâm bình đẳng đại bi mà tế độ. Chúng
sanh thấy chư Phật là chúng sanh nên khởi lòng phiền não phân biệt ghét
khinh. Cũng đồng là cái nhìn nhưng lại khác nhau bởi mê và ngộ. Là đệ
tử Phật, ta nên tuân lời đức Thế Tôn chỉ dạy, đối với chúng sanh phải có
tâm bình đẳng và tôn trọng, bởi vì đó là chư Phật vị lai, đồng một Phật
tánh. Khi dùng lòng bình đẳng tôn kính tu niệm, sẽ dứt được nghiệp
chướng phân biệt khinh mạn, nảy sinh các đức lành. Dùng lòng bình đẳng
như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề Tâm.
• Điểm thứ ba là
Từ Bi Tâm: Ta cùng chúng sanh đều sẵn đủ đức hạnh, tướng hảo trí huệ
của Như Lai, mà vì mê chân tánh, khởi hoặc nghiệp nên phải bị luân hồi,
chịu vô biên sự thống khổ. Nay đã rõ như thế, ta phải dứt tâm ghét
thương phân biệt, khởi lòng cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình cứu
người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Nên nhận rõ từ bi khác với ái
kiến. Ái kiến là lòng thương yêu mà chấp luyến trên hình thức, nên kết
quả bị sợi dây tình ái buộc ràng. Từ bi là lòng xót thương cứu độ, mà
lìa tướng, không phân biệt chấp trước; tâm này thể hiện dưới đủ mọi mặt,
nên kết quả được an vui giải thoát, phước huệ càng tăng. Muốn
cho tâm từ bi được thêm rộng, ta nên từ nỗi khổ của mình cảm thông đến
nỗi khổ khó nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự nhiên sanh lòng xót thương muốn
cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm từ đó phát sanh. Đại khái như trong
hoàn cảnh chiến tranh hiện nay, trẻ thơ phải nhờ cha mẹ nuôi dạy, mà cha
mẹ lại bị tử nạn thành ra côi cút bơ vơ. Lại như người già phải nhờ con
cái phụng dưỡng, mà con cái đều bị yểu vong, nên phải buồn đau cô khổ.
Thấy những cảnh ấy, động lòng xót thương, muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ
Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh. Những thanh niên thông minh
khỏe mạnh, tương lai đầy hi vọng bỗng bị bom đạn làm cho tàn phế. Nhiều
thiếu nữ đang hồi xuân sắc, người thân yêu nhờ cậy bỗng bị tử thần cướp
mất, khiến nỗi lạc bước sa đọa, hoặc thành cảnh mẹ góa con côi, sanh kế
sống còn của ngày mai mờ mịt. Thấy những cảnh ấy, động lòng xót thương
muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Có nhiều người đau yếu, mà vị vật giá cao quý, không tiền thuốc
thang, thành ra kéo dài thân bịnh khổ qua năm tháng, đôi lúc lắm kẻ phải
quyên sinh. Có những người nghèo nàn thất nghiệp, nay vợ đau, mai con
bịnh, rách rưới lang thang, nợ nần đòi hỏi, hằng chịu đói lạnh qua ngày
tháng, sống cũng lỡ mà chết chẳng xong. Lại có những kẻ mang nhiều tâm
sự buồn khổ mà không bạn lành khuyên lơn giải thích; những kẻ mê tối tạo
nghiệp không biết ngày mai mình sẽ khổ, không gặp Phật pháp để tìm
đường lối thoát ly. Thấy những cảnh ấy động lòng thương xót muốn cứu độ,
niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh. Nói rộng ra,
như trong kinh Hoa Ngiêm, ngài Phổ Hiền đã khai thị: “Bồ Tát quán sát
chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh tánh
chẳng điều thuận mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn
lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh
mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh đã bị ràng buộc, mà thích lao mình
vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh bị chìm đắm trong
biển sanh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh vương mang tật khổ lâu
dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà khởi
đại bi. Quán sát chúng sanh xa mất Phật pháp mà khởi đại bi…”
Đã phát đại bi tâm tất phải phát đại Bồ Đề tâm thề nguyền cứu độ. Thế
thì lòng đại từ bi và lòng đại Bồ Đề dung thông nhau. Cho nên phát từ
bi tâm tức là phát Bồ Đề tâm. Dùng lòng đại từ bi như thế mà hành đạo,
mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
• Điểm thứ tư là HOAN HỶ TÂM: Đã có
xót thương tất phải thể hiện lòng ấy qua tâm hoan hỷ. Hoan hỷ đây có hai
thứ: Tùy hỷ và hỷ xả. Tùy hỷ là khi thấy trên từ chư Phật, Thánh nhơn,
dưới cho đến các loại chúng sanh, có làm được công đức gì, dù là nhỏ mọn
cũng vui mừng theo. Và khi thấy ai được sự phước lợi, hưng thạnh, thành
công, an ổn, cũng sanh niệm vui vẻ, mừng giùm. Hỷ xả là dù có chúng
sanh làm những điều tội ác, vong ân, khinh hủy, hiểm độc, tổn hại cho
người hoặc cho mình, cũng an nhẫn vui vẻ mà bỏ qua. Sự vui nhẫn này nếu
xét nghĩ sâu, thành ra không thật có nhẫn, vì tướng người, tướng ta và
tướng não hại đều không. Nên Kinh Kim Cang dạy: “Như Lai nói nhẫn nhục
Ba La Mật, tức chẳng phải nhẫn nhục Ba La Mật, đó gọi là nhẫn nhục Ba La
Mật.” Lòng tùy hỷ trừ được chứng tật đố nhỏ nhen. Lòng hỷ xả
giải được chướng hận thù báo phục. Bởi tâm hoan hỷ không ngoài sự giác
ngộ mà thể hiện, nên đó chính là lòng Bồ Đề. Dùng lòng hoan hỷ như thế
mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
• Điểm thứ năm là SÁM
NGUYỆN TÂM: Trong kiếp luân hồi, mọi loài hằng đổi thay làm quyến thuộc
lẫn nhau. Thế mà ta vì mê mờ lầm lạc, từ kiếp vô thỉ đến nay do tâm chấp
ngã muốn lợi mình nên làm tổn hại chúng sanh, tạo ra vô lượng vô biên
ác nghiệp. Thậm chí đến chư Phật, Thánh nhơn, vì tâm đại bi ra đời
thuyết Pháp cứu độ loài hữu tình, trong ấy có ta mà đối với ngôi Tam Bảo
ta lại sanh lòng vong ân hủy phá. Ngày nay giác ngộ, ta phải hổ thẹn ăn
năn, đem ba nghiệp chí thành sám hối. Đức Di Lặc Bồ Tát đã lên ngôi bất
thối, vì muốn mau chứng quả Phật, mỗi ngày còn lễ sám sáu thời. Vậy ta
phải đem thân nghiệp kính lễ Tam Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu
được tiêu trừ, ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái phạm. Đã sám
hối, phải dứt hẳn tâm hạnh ác không còn cho tiếp tục nữa, đi đến chỗ tâm
và cảnh đều không, mới là chân sám hối. Lại phải phát nguyện, nguyện
hưng long ngôi Tam Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh, để chuộc lại lỗi xưa
và đền đáp bốn ân nặng. Bốn ân đó là: Ân Tam Bảo, ân cha mẹ sư trưởng,
ân thiện hữu tri thức, và ân chúng sanh. Có tâm sám nguyện như vậy
tội chướng mới tiêu trừ, công đức ngày thêm lớn, và mới đi đến chỗ phước
huệ lưỡng toàn. Dùng lòng sám nguyện như thế mà hành đạo mới gọi là
phát Bồ Đề tâm.
• Điểm thứ sáu là BẤT THỐI TÂM : Dù đã sám
hối phát nguyện tu hành, nhưng nghiệp hoặc ma chướng không dễ gì dứt
trừ, sự lập công bồi đức thể hiện sáu độ muôn hạnh không dễ gì thành
tựu. Mà con đường Bồ Đề đi đến quả viên giác lại xa vời dẫy đầy gay go
chướng nạn, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải chỉ một hai đời? Ngài
Xá Lợi Phất trong tiền kiếp chứng đến ngôi Lục Trụ, phát đại Bồ Đề tâm
tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ khoét một con mắt cho ngoại đạo, bị
họ không dùng, liệng xuống đất rồi nhổ nước dãi, lấy chân chà đạp lên
trên, Ngài còn thối thất Đại Thừa tâm. Thế thì ta thấy sự giữ vững tâm
nguyện là điều không phải dễ! Cho nên hành giả muốn được đạo tâm không
thối chuyển, phải lập thệ nguyện kiên cố. Thề rằng: “Thân này dầu bị vô
lượng sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh giết cho đến thiêu đốt nát tan
thành tro bụi, cũng không vì thế mà phạm điều ác, thối thất trên bước
tu hành.” Dùng lòng bất thối chuyển như thế mà hành đạo, mới gọi là phát
Bồ Đề tâm.
Sáu yếu điểm đã dẫn đại lược như trên, là sự
kiện phải có của người phát Bồ Đề tâm. Nếu không y theo đây lập chí
thiết thật tu hành, thì dù nói phát tâm chỉ là phát tâm suông, không thể
nào đi đến Phật quả. Trước mặt chúng ta chỉ có hai đường: Luân hồi và
giải thoát. Đường giải thoát tuy có lắm nỗi gian nan, nhưng mỗi bước đi
lần đến chỗ sáng suốt tự tại an vui. Đường luân hồi dù được tạm hưởng
phước nhơn thiên, nhưng kết cuộc phải chuyển đến cảnh tam đồ ác đạo, sự
khổ vô biên không biết kiếp nào ra khỏi. Vậy các vị đồng tu nên phát tâm
mãnh tiến, bước thẳng lên đường sáng đại Bồ Đề. Cảnh muôn hoa đua nở
nơi chân trời giải thoát sẽ đón chào các vị!
* LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁT LÒNG BỒ ĐỀ?
Phát Bồ Đề Tâm có thể tóm tắt trong bốn điều hoằng thệ là:
Chúng sanh vô biên thề nguyện độ.
Phiền não vô tận thề nguyện dứt.
Pháp môn vô lượng thề nguyện học.
Phật đạo vô thượng thề nguyện thành.
Nhưng không phải chỉ nói suông: ”Tôi phát Bồ Đề tâm”, là đã phát tâm, hay mỗi ngày tuyên đọc bốn điều hoằng thệ, gọi là đã phát Bồ Đề Tâm. Muốn phát Bồ Đề tâm hành giả cần phải quán sát để phát tâm một cách thiết thực, và hành động đúng tâm nguyện ấy trong đời tu của mình. Có những Phật tử xuất gia, tại gia, mỗi ngày sau khi tụng kinh niệm Phật đều quỳ đọc bài hồi hướng: “Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não…”, nhưng rồi trong hành động thì trái lại: Nay tham lam, mai hờn giận, mốt si mê biếng trễ, bữa kia nói xấu chê bai chỉ trích người, để đến bữa khác lại có chuyện tranh cãi gây gổ buồn ghét nhau. Như thế, tam chướng làm sao tiêu, phiền não làm sao trừ được? Chúng ta phần nhiều chỉ tu theo hình thức ít chú trọng đến chỗ khai tâm, thành thử lửa tam độc vẫn cháy hừng, không hưởng được hương vị thanh lương giải thoát của đức Phật đã chỉ dạy. Cho nên ở đây cần đặt lại vấn đề “Làm thế nào để phát Bồ Đề tâm?” Muốn cho lòng Bồ Đề phát sanh một cách thiết thật, chúng ta nên suy tư quán sát để phát tâm theo sáu yếu điểm như sau:
• Điểm thứ nhứt là Giác Ngộ Tâm: Chúng sanh thường chấp sắc thân này là ta, tâm thức có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc thân này giả dối, ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ đại không phải là ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, như một người trước kia dốt, nay theo học chữ Việt, tiếng Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt, tiếng Anh. Lại như một kẻ chưa biết Ba Lê, sau một dịp sang Pháp du ngoạn, thu nhập hình ảnh của thành phố ấy vào tâm. Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức liền hiện rõ quang cảnh của đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận vào nên tạm có, sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến tan mất hẳn, trở về không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh này tiêu, hình ảnh khác hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật, nên chẳng phải là ta. Cổ đức đã bảo:: “Thân như bọt tụ, tâm như gió. Huyễn hiện vô căn, không tánh thật.” Nếu giác ngộ thân tâm như huyễn, không chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới “ nhơn không” chẳng còn ngã tướng. Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không, nên không có nhơn tướng. Cái ta của mình và người đã không, tất cái ta của vô lượng chúng sanh cũng không, nên không có chúng sanh tướng. Cái ta đã không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh chứng thường trụ vĩnh cữu của Niết Bàn cũng không, nên không có thọ giả tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng phải không có thật thể chân ngã của tánh Chân Như thường trụ, nhưng vì thánh giả không chấp trước, nên thể ấy thành không. Nhơn đã không thì Pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Đây lại cần nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư huyễn, nên đương thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. Cho nên cổ đức đã bảo:
“Cần chi đợi hoa rụng. Mới biết sắc là không.”
(Hà tu đải hoa lạc. Nhiên hậu thỉ tri không)
Hành giả khi đã giác ngộ Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnh trong sáng không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
• Điểm thứ hai là Bình Đẳng Tâm: Trong Khế Kinh, đức Phật khuyên dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là cha mẹ đời quá khứ và chư Phật đời vị lai.” Chư Phật thấy chúng sanh là Phật, nên dùng tâm bình đẳng đại bi mà tế độ. Chúng sanh thấy chư Phật là chúng sanh nên khởi lòng phiền não phân biệt ghét khinh. Cũng đồng là cái nhìn nhưng lại khác nhau bởi mê và ngộ. Là đệ tử Phật, ta nên tuân lời đức Thế Tôn chỉ dạy, đối với chúng sanh phải có tâm bình đẳng và tôn trọng, bởi vì đó là chư Phật vị lai, đồng một Phật tánh. Khi dùng lòng bình đẳng tôn kính tu niệm, sẽ dứt được nghiệp chướng phân biệt khinh mạn, nảy sinh các đức lành. Dùng lòng bình đẳng như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề Tâm.
• Điểm thứ ba là Từ Bi Tâm: Ta cùng chúng sanh đều sẵn đủ đức hạnh, tướng hảo trí huệ của Như Lai, mà vì mê chân tánh, khởi hoặc nghiệp nên phải bị luân hồi, chịu vô biên sự thống khổ. Nay đã rõ như thế, ta phải dứt tâm ghét thương phân biệt, khởi lòng cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình cứu người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Nên nhận rõ từ bi khác với ái kiến. Ái kiến là lòng thương yêu mà chấp luyến trên hình thức, nên kết quả bị sợi dây tình ái buộc ràng. Từ bi là lòng xót thương cứu độ, mà lìa tướng, không phân biệt chấp trước; tâm này thể hiện dưới đủ mọi mặt, nên kết quả được an vui giải thoát, phước huệ càng tăng.
Muốn cho tâm từ bi được thêm rộng, ta nên từ nỗi khổ của mình cảm thông đến nỗi khổ khó nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự nhiên sanh lòng xót thương muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm từ đó phát sanh. Đại khái như trong hoàn cảnh chiến tranh hiện nay, trẻ thơ phải nhờ cha mẹ nuôi dạy, mà cha mẹ lại bị tử nạn thành ra côi cút bơ vơ. Lại như người già phải nhờ con cái phụng dưỡng, mà con cái đều bị yểu vong, nên phải buồn đau cô khổ. Thấy những cảnh ấy, động lòng xót thương, muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Những thanh niên thông minh khỏe mạnh, tương lai đầy hi vọng bỗng bị bom đạn làm cho tàn phế. Nhiều thiếu nữ đang hồi xuân sắc, người thân yêu nhờ cậy bỗng bị tử thần cướp mất, khiến nỗi lạc bước sa đọa, hoặc thành cảnh mẹ góa con côi, sanh kế sống còn của ngày mai mờ mịt. Thấy những cảnh ấy, động lòng xót thương muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Có nhiều người đau yếu, mà vị vật giá cao quý, không tiền thuốc thang, thành ra kéo dài thân bịnh khổ qua năm tháng, đôi lúc lắm kẻ phải quyên sinh. Có những người nghèo nàn thất nghiệp, nay vợ đau, mai con bịnh, rách rưới lang thang, nợ nần đòi hỏi, hằng chịu đói lạnh qua ngày tháng, sống cũng lỡ mà chết chẳng xong. Lại có những kẻ mang nhiều tâm sự buồn khổ mà không bạn lành khuyên lơn giải thích; những kẻ mê tối tạo nghiệp không biết ngày mai mình sẽ khổ, không gặp Phật pháp để tìm đường lối thoát ly. Thấy những cảnh ấy động lòng thương xót muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Nói rộng ra, như trong kinh Hoa Ngiêm, ngài Phổ Hiền đã khai thị: “Bồ Tát quán sát chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh đã bị ràng buộc, mà thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh bị chìm đắm trong biển sanh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh vương mang tật khổ lâu dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh xa mất Phật pháp mà khởi đại bi…”
Đã phát đại bi tâm tất phải phát đại Bồ Đề tâm thề nguyền cứu độ. Thế thì lòng đại từ bi và lòng đại Bồ Đề dung thông nhau. Cho nên phát từ bi tâm tức là phát Bồ Đề tâm. Dùng lòng đại từ bi như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
• Điểm thứ tư là HOAN HỶ TÂM: Đã có xót thương tất phải thể hiện lòng ấy qua tâm hoan hỷ. Hoan hỷ đây có hai thứ: Tùy hỷ và hỷ xả. Tùy hỷ là khi thấy trên từ chư Phật, Thánh nhơn, dưới cho đến các loại chúng sanh, có làm được công đức gì, dù là nhỏ mọn cũng vui mừng theo. Và khi thấy ai được sự phước lợi, hưng thạnh, thành công, an ổn, cũng sanh niệm vui vẻ, mừng giùm. Hỷ xả là dù có chúng sanh làm những điều tội ác, vong ân, khinh hủy, hiểm độc, tổn hại cho người hoặc cho mình, cũng an nhẫn vui vẻ mà bỏ qua. Sự vui nhẫn này nếu xét nghĩ sâu, thành ra không thật có nhẫn, vì tướng người, tướng ta và tướng não hại đều không. Nên Kinh Kim Cang dạy: “Như Lai nói nhẫn nhục Ba La Mật, tức chẳng phải nhẫn nhục Ba La Mật, đó gọi là nhẫn nhục Ba La Mật.”
Lòng tùy hỷ trừ được chứng tật đố nhỏ nhen. Lòng hỷ xả giải được chướng hận thù báo phục. Bởi tâm hoan hỷ không ngoài sự giác ngộ mà thể hiện, nên đó chính là lòng Bồ Đề. Dùng lòng hoan hỷ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
• Điểm thứ năm là SÁM NGUYỆN TÂM: Trong kiếp luân hồi, mọi loài hằng đổi thay làm quyến thuộc lẫn nhau. Thế mà ta vì mê mờ lầm lạc, từ kiếp vô thỉ đến nay do tâm chấp ngã muốn lợi mình nên làm tổn hại chúng sanh, tạo ra vô lượng vô biên ác nghiệp. Thậm chí đến chư Phật, Thánh nhơn, vì tâm đại bi ra đời thuyết Pháp cứu độ loài hữu tình, trong ấy có ta mà đối với ngôi Tam Bảo ta lại sanh lòng vong ân hủy phá. Ngày nay giác ngộ, ta phải hổ thẹn ăn năn, đem ba nghiệp chí thành sám hối. Đức Di Lặc Bồ Tát đã lên ngôi bất thối, vì muốn mau chứng quả Phật, mỗi ngày còn lễ sám sáu thời. Vậy ta phải đem thân nghiệp kính lễ Tam Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu được tiêu trừ, ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái phạm. Đã sám hối, phải dứt hẳn tâm hạnh ác không còn cho tiếp tục nữa, đi đến chỗ tâm và cảnh đều không, mới là chân sám hối. Lại phải phát nguyện, nguyện hưng long ngôi Tam Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh, để chuộc lại lỗi xưa và đền đáp bốn ân nặng. Bốn ân đó là: Ân Tam Bảo, ân cha mẹ sư trưởng, ân thiện hữu tri thức, và ân chúng sanh.
Có tâm sám nguyện như vậy tội chướng mới tiêu trừ, công đức ngày thêm lớn, và mới đi đến chỗ phước huệ lưỡng toàn. Dùng lòng sám nguyện như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
• Điểm thứ sáu là BẤT THỐI TÂM : Dù đã sám hối phát nguyện tu hành, nhưng nghiệp hoặc ma chướng không dễ gì dứt trừ, sự lập công bồi đức thể hiện sáu độ muôn hạnh không dễ gì thành tựu. Mà con đường Bồ Đề đi đến quả viên giác lại xa vời dẫy đầy gay go chướng nạn, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải chỉ một hai đời? Ngài Xá Lợi Phất trong tiền kiếp chứng đến ngôi Lục Trụ, phát đại Bồ Đề tâm tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ khoét một con mắt cho ngoại đạo, bị họ không dùng, liệng xuống đất rồi nhổ nước dãi, lấy chân chà đạp lên trên, Ngài còn thối thất Đại Thừa tâm. Thế thì ta thấy sự giữ vững tâm nguyện là điều không phải dễ! Cho nên hành giả muốn được đạo tâm không thối chuyển, phải lập thệ nguyện kiên cố. Thề rằng: “Thân này dầu bị vô lượng sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh giết cho đến thiêu đốt nát tan thành tro bụi, cũng không vì thế mà phạm điều ác, thối thất trên bước tu hành.” Dùng lòng bất thối chuyển như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.
Sáu yếu điểm đã dẫn đại lược như trên, là sự kiện phải có của người phát Bồ Đề tâm. Nếu không y theo đây lập chí thiết thật tu hành, thì dù nói phát tâm chỉ là phát tâm suông, không thể nào đi đến Phật quả. Trước mặt chúng ta chỉ có hai đường: Luân hồi và giải thoát. Đường giải thoát tuy có lắm nỗi gian nan, nhưng mỗi bước đi lần đến chỗ sáng suốt tự tại an vui. Đường luân hồi dù được tạm hưởng phước nhơn thiên, nhưng kết cuộc phải chuyển đến cảnh tam đồ ác đạo, sự khổ vô biên không biết kiếp nào ra khỏi. Vậy các vị đồng tu nên phát tâm mãnh tiến, bước thẳng lên đường sáng đại Bồ Đề. Cảnh muôn hoa đua nở nơi chân trời giải thoát sẽ đón chào các vị!